Friday, February 27, 2009

CHÍN CHỮ CÙ LAO


·Hơn nửa thế kỷ trước, tôi học Bài học thuộc lòng có những câu :
·
· ‘’Cha sinh,mẹ dưỡng,
· Chữ cùlao lấy lượng nào đong.
· Thờ cha kính mẹ hết lòng,
· Ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường....’’
· Ngày nay,.khi đọc những câu trên, sợ rằng có người
· không hiểu rõ nghiã chữ ‘’cù lao’’,nên xin có đôi lời bày tỏ:
·
·
Theo Từ Điển HánViệt Từ Nguyên của Bửu Kế,(Nhà Xuất bản Thuận Hoá,1999,) hai chữ ‘’cù lao’’ dược định nghiã như sau:
· Cù Lao: (trang 291) Cù : Siêng năng,nhọc nhằn. Lao:Khó nhọc
· Cha Mẹ siêng năng khó nhoc để nuôi dưỡng con cái.
·
Kinh Thi có câu :’’ Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao. Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, phủ ngã, xúc ngã,trưởng ngã, dục ngã, cố ngã, phục ngã, phúc ngã. Dục báo thâm ân, hạo thiên võng cực’’.(tạm dịch : Thương thương cha mẹ, sinh ta khó nhọc. Cha sinh ra ta(sinh ngã) mẹ nâng đỡ ta (cúc ngã), vuốt ve ta(phủ ngã), cho ta bú (xúc ngã) , nuôi ta lớn lên (trưởng ngã),dạy dỗ ta (dục ngã), đoái tưởng đến ta (cố ngã),săn sóc dạy dỗ ta (phục ngã), che chở ta (phúc ngã). Muốn báo ơn sâu như trời cao lồng lộng, sâu thẳm vô cùng.(Dục báo thâm ân, hạo thiên võng cực)
·
Mỗi khi đọc những câu trên, người viết bài này thường rất xúc động, nghẹn ngào nước mắt trào ra không sao ngăn nổi. Bản tính dễ xúc động, đa cảm ấy, hiển nhiên tôi đã thừa hưởng từ cha tôi và ông nội tôi. Cha tôi thường kể lại chuyện ông bà nội rất hiếu thảo đói với cụ tằng nội tổ , Cụ Vũ Đức Khiêm ,Tri Phủ Thông Hóa Bắc Ninh hồi cuối thế kỷ 19.Trước khi cụ Phủ qua đời, cụ có trối lại: ‘’Min (tiếng cổ có nghiã là:ta ) biết ông bà Hàn rồi, là người có hiếu hết lòng thờ cha kính mẹ. ‘’ Ông Nội là tín đồ Tin Lành gương mẫu, mỗi lẫn Ông Nội cầu nguyện, ông mặc áo dài, đội khăn chỉnh tề ;khi nhắc tới Cha Mẹ, ( Hai Cụ Phủ), Ông thường khóc, hai môi ông mím lại, cố đè nén cảm xúc .Hình ảnh một cụ già 70 tuổi khóc nhớ cha mẹ, trước mắt tôi,chú bé lên 10 tuổi, còn ghi sâu mãi trong tâm khảm tôi.
·
Cách đây chừng hơn 50 năm, trong cuộc chiến Việt- Pháp, cha tôi từ Hà nội tản cư về quê nhà, làng Hoành Nha, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.Thời gian này, Cha tôi có dịp được ở gần Ông bà nội, và người đã hầu hạ, phụng dưỡng ông bà nội hết lòng.Hằng ngày, mỗi sáng tối, Cha đến nhà ông bà nội thăm nom,săn sóc ân cần, đúng theo tinh thần ‘’hôn định thần tỉnh’’ của người xưa.( Theo Hán Việt Từ điển Giản Yếu của Đào Duy Anh, Trường Thi xuất bản, 1957, Trang 389, Hôn Định Thần Tỉnh có nghĩa là: Buổi chiều ( hôn) phải hầu cha mẹ,xem cha mẹ có ngủ yên (định) không, buổi sáng mai (thần )phải thăm xem cha mẹ có được yên giấc không, và đã thức dậy(tỉnh) chưa? Điều này ta thường gọi là đạo thần hôn, con cái phải luôn thăm viếng cha mẹ mỗi ngày ít ra là hai lần. Nhưng ở thời đại này, có mấy người con biết rõ điều để đối xử với cha mẹ như người xưa?) .Mỗi bữa ăn sáng chiều, mẹ tôi dọn cơm đặt vào mâm, cha tôi đi cùng người giúp việc mang sang nhà ông bà nội, ở cách xa chừng 300mét, và người đứng quạt hầu ông bà nội ,khi ông bà nội dùng cơm. Cha tôi làm việc này suốt mấy năm cho đến khi ông bà nội qua đời hồi đầu thập niên 50. Những năm sau đó,khi di cư vào Nam ,cha tôi vẫn giữ quan niệm ‘’sự tử như sự sinh,’’(thờ cha mẹ khi chết cũng như khi sống. ) Trước mỗi bữa ăn, người thường đứng trước hình ông bà nội và nói:’’ Mời cha mẹ xơi cơm ạ.’’Hồi ấy, tôi thật là vô lễ khi cho rằng cha tôi lẩm cẩm, nhung bây giờ tôi thấy Cha tôi có lý của người, và người đã dạy cho chúng tôi một bài học về lòng tưởng nhớ cha mẹ . Hình ảnh cảm động nhất là Cha tôi thường đứng trước hình ông bà nội, mắt đẫm lệ, miệng hát nho nhỏ:
· ‘’Cha Mẹ ơi, con biết lấy chi đền bồi,
· Ơn sâu hơn biển, cao hơn trời? ‘’
·
Cho đến nay, ở tuổi ngoài 70 , tôi chưa thấy một người nào hiếu thảo gương mẫu như cha tôi.và khi viết những dòng này, nước mắt tôi trào ra không ngăn nổi. Tôi hối hận vì những ngày cha mẹ tôi còn sống, tôi đã bao lần làm cho cha mẹ tôi phiền lòng vì đã bất hiếu, nhiều lần cãi lại cha mẹ, hoặc làm trái ý cha mẹ .
·
Cha mẹ tôi khi sinh thời thường nói: ‘’Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy’’,và đây là một kinh nghiệm qúy báu,mà chúng ta nên áp dụng và dạy dỗ cho các thế hệ con cháu sau này.
·
‘’Tháng 4-1975, tình hình đất nước dầu sôi lửa bỏng, anh Cả tôi may mắn được di tản kịp trước khi giặc Cộng vào Saigòn. Anh chị tôi đem cha mẹ tôi đi cùng. Suốt gần 10 năm Cha tôi bị tê liệt nửa mình, từ 1982 đến 1990, cha qua đời, anh cả là người giúp mẹ hầu hạ cha tích cực nhất ,sốt sắng nhất, với sự tham dự của các em Lâm Thiện Ngôn(em rể) và Vũ Trung Hiền. Khi hầu hạ cha, tất cả những công viêc từ nặng đến nhẹ, từ sạch sẽ tới dơ bẩn, anh cả giành làm hết, không nề hà, không phàn nàn,và mặc dù gặp những tị hiềm, những hiểu lầm, anh Cả chịu đựng hết. Có thể nói là ở thời đại chúng ta đang sống, rất ít người đã hầu hạ Cha Mẹ như anh Cả tôi đã làm.
·
Một điều nữa đáng ghi nhận là những năm trước khi cha qua đời,các em Vũ Trung Hiền và em rể Lâm thiện Ngôn cùng cháu Vũ Trung Hoà đã phụ giúp anh Cả, hết lòng hầu hạ Cha và ông nội,không nề hà dơ bẩn, chăm nom, săn sóc vệ sinh, tắm rửa hằng ngày.
· .
Tôi viết ra những điều này, không chỉ có mục đích ca ngợi anh Cả và các em ,mà còn muốn ghi lại những việc tốt lành đã được thực hiện theo truyền thống hiếu hạnh của đại gia đình họ Vũ.
·
Sau khi viết phần đầu của bài Chín Chữ Cù Lao, người viết nhận được thư của chú em thứ sáu, Vũ Ngọc Bích, xin trích ghi thêm vào bài này để lưu làm tài liệu:

Ngày 26-7-2002.
·
Thưa anh chị thân mến, Em có đọc bản thảo bài Chín Chữ Cù Lao của anh trên Internet, rất cảm động. Em xin gửi anh một vài chi tiết như sau:Trước ngày 30-4-1975, đại gia đình ta chỉ có 2 gia đình duy nhất được rời Sài-gòn bằng cầu không vận Hoa kỳ.Gia đình anh chi Cả có cha mẹ già cùng đi và gia đình em. Cuối 1975, em đưa gia đình rời Virginia qua California và ở gần cha me tại North Hollywood. Anh chị Cả ở Pasadena cách chỗ cha mẹ ở chừng 26 miles.Trong 7 năm sống gần cha mẹ tại đây,chúng em cảm thấy được an ủi khi xa quê hương.Chúng em cố gắnglàm mọi việc tốt đẹp để cha mẹ được vui lòng.Tuy không hầu hạ cha mẹ mỗi ngày như cha mẹ đã phụng dưỡng ông bà nội ngày xưa, nhung mỗi khi vợ em nấu món ăn ngon cũng nhớ tới cha mẹ già và em đích thân mang tới biếu cha mẹ. 18 tháng sau khi tới Mỹ, em mua căn nhà dâu tiên,gần nhà cha mẹ, và đó là thời kỳ vui nhất, ông nội thường hay đi bộ qua nhà em,nhắc nhở các cháu học bài,và dạy các cháu hát thánh ca, cầu nguyện. Mỗi sáng chúa nhật, chúng em thường đón cha mẹ đi nhà thờ và đi siêu thị mua thức ăn.Cha mẹ thuê một căn phòng ở tầng 2 nên đi lên xuống cầu thang cũng bất tiện.
·
Có lần đi chợ, cha thấy gạo lứt bán sale, cha mua liền 10 bao. Em khuân ra xe và sau đó hì hục khuân lên gác chất vào góc bếp cũng khá mỏi vai. Vài năm sau, sức khoẻ cha mẹ giảm dần, nên em phải đưa đi nhà thương gặp bác sĩ thường xuyên. Thời gian này, em đi làm ban ngày,vợ em đi làm ca tối, nên có thể săn sóc cha mẹ rất chu đáo.Khi đi thăm bác sĩ, vợ em thận trọng dìu cha mẹ vào thang máy để đến phòng mạch.Bác si hỏi ông nội:’’Có phải đây là con gái cụ không?’’ Cha hãnh diện trả lời:’’ Không, đây là con dâu tôi!’’Bác sĩ và cô y tá trố mắt ngạc nhiên,thán phục văn hoá Việt nam,vì ở Mỹ, con dâu thường ít quan tâm đến cha mẹ chồng.Vợ em có kể lại rằng,lúc đó cha mẹ cười vui rạng rỡ,và tự hào vì con dâu hiếu thảo , thương yêu săn sóc cha mẹ. Sau đó, vợ em có thưa cha mẹ rằng:Con mồ côi mẹ từ năm 13 tuổi, nay cha con cũng đã qua đời , nên con coi cha mẹ cũng như cha mẹ ruột của con vậy.Nói xong vợ em lau nước mắt, và trên má mẹ già lấp lánh những giọt lệ.Có một điều em rất hãnh diện là suốt hơn 30 năm làm dâu nhà họ Vũ mà chưa bao cha mẹ nặng lời với vợ em.
·
Một năm trước ngày cha bị tai biến mạch máu não,vợ chồng em đến thăm cha mẹ trên căn gác đường Dundas Drive, North Hollywood, cha có bảo em giúp cho bà cụ Bào một phòng ở cùng nhà em. Em thưa với cha là chúng em có 2 vợ chồng với 4 con , e chật chội. Vừa nghe em trả lời, cha nổi nóng đuổi theo em;mẹ đứng giữa ngăn lại,em chạy nhưng vừa tới cầu thang,em đứng khựng lại ngay ,vì sợ bước thêm cha đuổi theo sẽ bị ngã. Lúc đó dường như cơn giận của cha đã hạ,cha chỉ ‘’phát nhẹ 2 cái trên vai em,và nói là con phải giúp người già nua, goá bụa chứ!Em không cảm thấy đau., nhưng em nhớ lại khi em khoảng 10 tuổi, mỗi sáng lúc 6giờ 30, cha thường đánh thức mấy anh em mình dậy sớm tập thể dục,; có lần em ngủ nướng,bị cha phát 2 cái vào mông thật đau, và bây giờ bị 2 phát vào vai,em không thấy đau gì cả.Em nhớ câu chuyện ‘’Nhị Thập Tứ Hiếu’’ cha thườngkể cho anh em mình nghe,. Trên đường lái xe về nhà, em chỉ yên lặng,mắt ứa lệ,khi nghĩ đến cha dã già,sức khỏe đã cạn kiệt,nên đánh mình không thấy đau nữa.Vợ em gạn hỏi’’ sao hôm nay anh buồn’’, em chỉ trả lời là ‘’khi nghĩ tới cha mẹ sẽ ra đi về cõi vĩnh hằng nên anh buồn’’....(Trích thư Vũ Ngọc Bích).
·
Tôi ghi lại những cảm nghĩ và sự việc trên, với niềm mong ước là khi các con cháu tôi đọc những dòng chữ này thì có những suy nghĩ ứng dụng vào cuộc sống hằng ngày.Đó là điều tâm nguyện của tôi trong những năm tháng cuối đời tôi.
·
San Jose, tháng 10-2002
·
· Vũ Đức Nghiêm

THƠ TÙ


Mừng Thọ Hà Thượng Nhân

Chúc thọ Hà Quân sáu chục tuổi.
Đường xa gánh nặng vai chưa mỏi.
Công danh phú quý lòng không tham,
Tù ngục bần hàn chí chẳng đổi.
Ngọn bút vẫy vùng sóng hận dâng ,
Lời thơ sang sảng,lửa thù nổi.
Chim hồng tạm nghỉ cánh bay cao,
Vẫn vững niềm tin ngày quật khởi.

Hàm Tân, Tết 1982

CẢM ĐỀ
Đã mấy trăng hao gầy ngóng trông,
Mưa khuya trăn trở, sương mênh mông.
Suy tư dằn vặt, nhầu chăn gối,
Su nghiệp tan tành, thẹn núi sông.
Tủi với tiền nhân ca chính khí,
Ngượng cùng hậu thế luận anh hùng
Tuổi tri thiên mệnh tàn cơ nghiệp,
Lại bắt đàu đi từ số không.

Trại Tù Long Giao, tháng 9-1975

(Họa nguyên vận của Hà Thượng Nhân)
Bao la trời đất phương nào trông,
Áo mỏng chiều hôm đứng ngó mông.
Thêm nhớ phải đâu vì cách núi,
Chưa về chẳng bởi tại ngăn sông.
Ngẩng đàu trước mặt đà ngơ ngác.
Cất bước sau lưng luống hãi hùng.
Sự nghiệp xem như là chẳng có,
Lòng thành một chút có còn không?

Vũ Đức Nghiêm

Wednesday, February 25, 2009

Quê nhà, 50 năm trở lại - Ký của Vũ Đức Hoành Nha


Thế là tôi đã trở về quê nhà , làng Hoành Nha, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam định, sau nhiều năm dài trăn trở, trong nỗi niềm hoài hương canh cánh bên lòng. Tôi đã quyết định về thăm quê tôi, thăm mồ mả tổ tiên một lần,thăm lại anh em họ hàng một lần trước khi quá muộn.

Máy bay đáp xuống sân bay Nội bài, tôi chống gậy đi theo con gái và con trai út rời phi trường, lấy taxi về Hànội. Xe chạy chừng 1/2 giờ vào tới trung tâm thành phố. Chúng tôi lấy phòng ở khách sạn Youth, đường Lương văn Can, cách xa Hồ Hoàn Kiếm chừng 300m. Sau khi nhận phòng,mấy bố con đi bộ ra Hồ ,xem lại nơi xưa. Càu Thê Húc còn đây, Tháp Rùa xưa vẫn đó, nhưng tâm trạng của người trở về nơi in dấu chân của mình 50 năm trước thật là bồi hồi và bâng khuâng vô cùng.

Cuôc hội ngộ với ông anh họ và chị dâu và các cháu thật là cảm động. Tôi rưng rưng cầm tay anh tôi, xưa là một thanh niên đẹp trai, cường tráng, nay đã thành cụ già gần 80, đầu râu tóc bạc. Anh em tâm tình, gợi lại những kỷ niệm xưa, kẻ còn người mất.Những ngày sau đó, tôi cùng các con và chú Châu, em ruột tôi còn ở lại Việt nam hướng dẫn đi thăm Vịnh Hạ Long. Phong cảnh Hạ long,đẹp nên thơ, tôi chợt nhớ lại, nơi này, hơn 60 năm trước, cha mẹ tôi đi thuyền ra thăm Vịnh, lúc về, bị gió bão nổi lên suýt nữa đắm thuyền.

Trở về Hànội, tôi có dịp các bạn đồng môn Chu văn An (lớp Đệ Nhị C,năm 1950-51) tại một quán thịt chó ở phố Hàng Lược. Khoảng gần 20 anh chị đến gặp tôi, nhắc nhở kỷ niệm xưa,trong đó có Trần phi Hiển, nay là bác sĩ, và các bạn Nguyễn Tô, Nguyễn bội Tài và vợ là Trần Tuệ Khanh,em gái Trần Phi Hiển, Kiều Duy Vĩnh, Trịnh văn Tú,Phạm Xỹ Bích, va một số bạn khác không nhớ hết tên.Ròi ngày đợi mong cũng đã đến. Sáng thứ bẩy ngày 9 tháng ba, chúng tôi thuê bao taxi một ngày đi về làng, qua thành phố Nam định, giá tiền khoảng 60 USD. Tài xế taxi đúng 6giò 30 đến đón ở khách sạn. Sau khi ăn phở gà , chúng tôi khởi hành. Xe chạy bon bon trên Quốc lộ 1. Tới Nam định khoảng 9 giờ sáng, tôi nhờ tài xế chạy một vòng xem lại phố xá với hy vọng tìm lại ít dấu vết ngàyxưa.

Tôi bồi hồi nhìn lại Chợ Rồng, bến Ô tô Nam định, Trường Cửa Bắc, (tên cũ là Jules Ferry), nơi 60 năm trước tôi còn là chú bé Tiểu học. Tất cả đều đã đổi thay không còn nhìn ra . Tôi ghé vào Nhà Thờ Tin Lành Nam định, nơi 58 năm xưa tôi gặp cô bé học sinh lớp Nhất, là fiancée của tôi ,để mà mường tượng tới những hình ảnh thân yêu ngày còn thơ ấu.Nhưng rất tiếc,cảnh đổi thay trước mắt đã làm nhạt nhòa tất cả khiến cho lòng cảm thấy buồn man mác.

Xe chạy qua đường Paul Bert(tên cũ), đến góc đường Carreau, tôi nhớ lại nơi đây, hơn 50 năm trước, những chàng trai bỡ ngỡ trên đườngvàoTrường Sĩ Quan Trừ bị Nam Định.trong trại Carreau. Xe chạy băng qua cầu Đò Quan, nơi xưa là bến phà Đò Quan, trên đường qua Cổ Lễ, rồi đến cầu Lạc Quần, nghe nói là của một ông vua bên châu Âu tặng tiền xây cầu thay thế phà Lạc Quần. Ngày xưa xe cộ qua đây đều phải qua bằng phà, có người hát xẩm mù lòa, kéo nhị hát rong kiếm sống nhờ lòng từ thiện của khách qua sông. Qua cầu Lạc Quần, xe chạy dọc ven đê sông Ninh Cơ, hướng về dốc Bùi Chu, ngừng lại bên cầu làng Xuân Bảng, quê ngoại tôi. Tôi đứng lặng bên cầu, bồi hồi nhớ Mẹ .

Hơn 60 năm rồi, hình ảnh dịu dàng của mẹ tôi, mỗi vài tháng về thăm quê ngoại một đôi lần, thăm hai anh em, em Chỉnh và tôi,hồi đó trọ học ở nhà ông bà ngoại; mỗi lần tiễn mẹ về quê nội Hoành Nha, cách xa chừng 6,7 km khi chia tay ở bên cầu, hai anh em cùng khóc vì nhớ Mẹ, nhưng cùng giấu nhau là mình khóc nhớ mẹ. Mẹ yêu qúy của chúng con! Nay Mẹ đã vĩnh viễn xa rời chúng con, nhưng hình ảnh Mẹ hiền yêu dấu chẳng bao giờ phai nhạt trong tâm tưởng chúng con!

Đã đến ranh giới huyện Giao Thủy, bên đường có một tấm bảng lớn với dòng chữ: Huyện Giao Thủy welcomes to You (!) và gần đãy là trạm bán nhiên liệu với bảng ghi : Trạm bán Xăng Dầu Hoành Nha. Đã đến đầu làng tôi rồi! Xe taxi rẽ tay phải, ngừng tại địa điểm quy lăng, nơi các ngôi mộ của các dòng họ lớn trong làng được cải táng và xây đắp theo hàng lối rất quy củ và trật tự. Tôi ngồi lặng lẽ bên ngôi mộ ông bà nội, nước mắt muốn trào ra, nhưng kìm lại được. Ông Bà Nội kính mến của con, thế là hơn 50 đã qua kể từ ngày ông bà nội qua đời, nay thằng cháu lãng tử hư đốn của ông bà nay mới có dịp đến thăm mộ ông bà nội.Kỷ niệm cuối cùng con nhìn thấy ông nội là một ngày đầu năm 1949, sau khi ăn tết Kỷ Sửu, con theo anh Cả con lên Hà Đông, nơi anh con làm thẩm phán để theo học lớp Đệ Tứ, ông nội tiễn chân hai anh em con ra tới Quán Giữa..

Từ Bến May ngoảnh lại, con nhìn thấy ông nội khoác chiếc áo lông cừu mầu đen, một tay cầm gậy, một tay vẫy hai đứa cháu. Còn nhớ khoảng những năm 1936-37, ông bà nội lên Thái Bình thăm bố con. Xe ông bà vừa tới trước nhà số 25, đường Miribel, con đã chạy ra, ôm hôn ông bà tới tấp. Ngày nay, mỗi lần mấy đứa cháu nội, ngoại của con ôm hôn con, con thấy cha mẹ chúng nó cũng hài lòng như bố con đã hài lòng khi thấy con ôm hôn ông bà nội khi xưa. Từ biệt mộ ông bà nội, tôi ghé lại thăm mộ bác Lục, cụVũ đức Phúc,là anh ruột bố tôi , mộ mấy ông bà chú bác và mấy anh họ , cùng dòng Vũ Đức. Phần lớn các anh em họ tôi đều qua đời khá trẻ, ở tuổi 50,60 là cùng. Sau đó, là chương trình đi thăm mấy người bà con trong đại gia tộc. Tất cả đều tỏ vẻ vui mừng gặp lại người đi xa về.

Tôi tìm về khu nhà của cha mẹ ngày xưa, nay đã bị chia cho các bần cố nông sau vụ Cải cách ruộng đất 1956 và đứng lặng trước một di tích cuối cùng : tôi ngậm ngùi nhìn bể nước xây xi măng ở trước phòng cha mẹ tôi, chính ở phòng này, mẹ đã sinh em trai út, và cũng là nơi em gái tôi, Vũ thị Ngọc Lan thở hơi cuối cùng trên tay mẹ.Tôi còn mường tượng thấy tiếng gào khóc của Mẹ khi mất em Lan, tiếng khóc của mẹ day dứt, xoáy mạnh vào tim tôi dù đã hơn nửa thế kỷ qua rồi. Tôi lặng nhìn căn phòng này, nơi duy nhất không bị tàn phá, hiện có người ở; rất tiếc, người ấy đi vắng, nên tôi không xin phép vào thăm được. Căn phòng này dường như đã lâu lắm không được quét vôi nên trông xuống cấp thảm hại. Sau đó em Châu hướng dẫn đi thăm một bà chị họ , khi được giới thiệu, chị đứng lặng người rồi ôm choàng tôi, miệng nói: ‘’Em tôi!’’ Tôi cũng gặp một vài thanh niên, con của các anh họ tôi, chúng có vẻ ngơ ngác khi nói chuyện với tôi. Tâm trạng tôi bồi hồi như một nhà thơ Đưòng đã viết:

Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao thôi,
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn : khách tòng hà xứ lai ?
(tạm dịch:)
Trẻ nhỏ xa nhà, già trở lại,
Tóc râu bạc, giọng quê không đổi.
Trẻ thơ gặp ta, chẳng từng quen
Cười hỏi: khách từ phương nào tới?

Trên đường về, tôi mang tâm trạng nửa vui, nửa buồn, vì đã hoàn thành nguyện ước thăm lại quê nhà, trước khi quá muộn. Có một nhà văn Pháp đã viết: ‘’ Tous les changements, même les plus souhaités,ont leur mélancholie.’’ (tạm dịch: Mọi sự đổi thay, dù là những điều ta mong muốn nhất đều có những nỗi u buồn. )

Quê tôi đã có nhiều thay đổi,nhưng khi trở về, tôi mong được nhìn lại con đường xưa, quanh co, nhỏ hẹp, và khi trời mưa, thì rất lầy lội; tôi muốn được nhìn thấy ngôi đình làng, nơi tôi học đánh vần abc,tôi mơ được nhìn lại viên đá tảng cỡ 40x 60 cm; 108 viên nối tiếp nhau từ bờ sông quán giữa về đến ngôi nhà cha mẹ tôi ở thôn Thượng, nơi có cổng xây ghi hàng chữ La mã MCMXXX ( 1930); cha mẹ tôi đã xây cổng này vào năm tôi chào đời. Tôi mong đưọc nhìn lại cái ao nhỏ trước nhà với cây sung xần xùi vì những vết dao chém. để lấy nhựa sung phất diều, chiếc diều với con sáo nhỏ kêu vi vu khi diều no gió bay lên cao. Tôi mơ được nhìn lại những luỹ tre làng, được ngửi mùi khai nồng của phân , nước đái trâu bò trong những hố phân ủ rơm rạ, nhưng tất cả đều đã không còn nữa.

Năm 1954, cha mẹ tôi đã di cư vào Nam. Cứ tưởng tượng nếu vì một lý do nào đó, cha mẹ tôi không di cư kịp năm đó, thì chắc là tai họa ghê gớm đã xẩy ra cho cha mẹ tôi năm 1956, khi giặc Cộng phóng tay phát động quần chúng, đãu tố, giết người, cướp của như chúng đã đãu tố đến chết bà cụ Chánh Vũ Đức Hoan, là chị dâu họ của Bố tôi; bà cụ Chánh Hoan đã bị bức tử, mặc dù trưởng nam là Vũ Đức Âu, anh họ tôi, là đại biểu Quốc hội Cộng Sản, và thứ nam là Thiếu tá Vũ Đúc Điệp, Tiểu Đoàn Trưởng V.C cũng không cứu nổi mẹ già.

Nay tôi đã trở về San Jose, sống an bình bên vợ con và một đàn cháu nội ngoại gần 20 đứa, tôi tạ ơn Thượng Đế đã gìn giữ tôi đi đến nơi, về đến chốn. Kỷ niệm chuyến đi thăm quê nhà cuả tôi chỉ như một giấc mơ ngắn ngủi nhưng đẹp và buồn. Giấc mơ ấy có thể đã trở thành ác mộng, nếu một tai nạn lưu thông nào đó đã xẩy đến cho tôi, và điều bất trắc ngoài ý muốn, là bất cứ một chú Công an V.C nào đó cũng có thể nhân dịp đó, giữ tôi lại ít hôm. Sự việc bất trắc nào cũng có thể xẩy ra, cho dù bạn có là công dân Mỹ đi nữa, thì cũng có thể gặp rắc rối với V.C., nếu chúng muốn gây khó khăn cho bạn. Rất may là, đối với tôi, điều ấy đã không xẩy ra.

San Jose, tháng 4-2002 h
VŨ ĐỨC HOàNH NHA

Bài hoạ của Đông Anh Nguyễn đỉnh Tạo


Nhìn cánh diều bay vút vút cao
Mây lùa theo gió bóng chim chao
Tung tăng cánh bướm hồn hoa lạ
Ồ thế mình đang bị nhốt sao?

Ta đã lưu đày ra xứ Bắc
Đất gì chứa toàn chuyện binh đao
Trùng trùng sỏi đá rừng gai nhọn
Lời nói nhân gian thiếu ngọt ngào
Gió lạnh căm căm như cắt thịt
Chân trần sương muối sát niềm đau

Thanh Chương Nghệ Tĩnh sôi thù hận
Oán chạ đầu tù việc cứ giao
Vắt kiệt sức người cho đến chết
Rồi đem thân xác rải bên cầu
Vênh vang nét mặt phường kiêu ngạo
Mở miệng tuôn ra những hỗn hào
Các Mác Lê Nin thờ quỵ lụy
Tình cha nghĩa mẹ chẳng vào đâu

Sáu năm tù, vẫn vui thơ phú
Thân mỏi mòn, sức lực tán hao
Ta vẫn cương cường cười ngạo nghễ
Sá gì đâu những chuyện gian lao
Tường giam bốn bức vây rào kẽm
Loa thét truyền thanh tiếng kẻng gào
Sát khí đằng đằng nanh vuốt nhọn
Oán hờn gieo nặng hạt mưa mau
Dân còn đói sao tù no được?
Cán bộ tranh giành bóc lột nhau
Sáu cái tết rồi trong ngục lạnh
Từ Nam ra Bắc một trời sầu
Lam giang nhuộm máu sông đen lại
Hồng Lĩnh xương tàn một đống cao
Rừng đỏ Thanh Chương trơ trụi lá
Bụi hồng phủ kín cả quanh rào
Trẻ con sơ sác không cơm áo
Đâu biết mai này sẽ tới đâu?
Cách mạng tượng trưng bao nghịch cảnh!
Trẻ già lớn bé sống chiêm bao!!!

Gia đình ly tán ra trăm mảnh
Trời thảm đất sầu, hỏi tại sao?
Con lạc lên Miên đền mạng lính
Vợ thăm tù chân thấp chân cao
Chung quanh toàn thể người xa lạ
Nón cối sao vàng mặt vênh vao
Sáu năm thôi nhé tan tành hết!
Ngục tối nhà giam hẹp khít khao
May có bạn bè bên sớm tối
Giữa vòng giây kẽm vịnh trăng sao.

Đông Anh Nguyễn Đình Tạo

Tuesday, February 24, 2009

Bài hoạ của Hà Thượng Nhân


Đường vẫn còn dài, núi vẫn cao
Tháng năm tù ngục buồn ôi chao!
Dặm về chưa hẳn là vô định
Mà chẳng về cho, biết tại sao?

Ai giam ta tháng ngày heo hút?
Ta nhớ ai tháng ngày lao đao?
Nước suối, khoai sắn chẳng no bụng
Chẳng nghe bên tai tiếng ngọt ngào
Chỉ nghe căm thù đang réo gọi
Chỉ biết trăm họ đang khổ đau

Nhân danh đoàn kết gây chia rẽ
Không cần nội trị hay ngoại giao
Chỉ biết đầy dân như súc vật
Chỉ biết làm sao đạt yêu cầu
Nhân nghĩa chẳng thể bằng quyền lợi
Trời Phật cũng quy vào địa hào
Nhìn nhau kinh ngạc, ai còn mất
Chẳng biết về đâu tới những đâu!

Mỗi đêm gục đầu thương vợ trẻ
Mà buồn trăng khuyết đĩa dầu hao
Mỗi đêm thương con trào nước mắt
Xưa nay mình vẫn khinh gian lao
Tự do dù vẫn trong tù ngục
Còn miệng làm sao không thét gào?
Còn tay làm sao không nắm chặt?
Còn chân làm sao khôn đi mau?
Còn tấm lòng này son sắt vậy
Tết về biết gửi gì cho nhau?
Gửi chung thiên hạ lời thăm hỏi
Sao vẫn thiên thu một chữ sầu?
Sao thơ chưa phải là thương nhớ
Sao nhớ thương này chất ngất cao?
Bạn về nhìn lại hành tinh biếc
Nghe lại rừng xuân gió rạt rào
Mừng thấy rằng mình còn vẫn trẻ
Mười năm đầy đọa có gì đâu!
Ta về lại ấm tình đồng đội
Nắm chặt bàn tay hả biết bao!

Ta về như trải cơn hồng thủy
Ngửa cổ nhìn trời rực rỡ sao
Mấy gã đầu bù trong quán cóc
Đập bàn hào khí đã dâng cao
Chúng dù ác độc hơn lang sói
Tấm lòng sau trước chẳng vênh vao
Lại thấy mùa xuân như vẫy gọi
Ý thiếp lòng chàng thật khít khao
Ba mươi năm đọc bài thơ cũ
Thơ của chúng mình xưa đấy sao?

Hà Thượng Nhân

Xuân Hành


Viết tặng anh Hà Thượng Nhân

Mây trắng lững lờ trên tầng cao
Đàn chim én lượn bay lao chao
Lòng ta chơi vơi xao xuyến quá
Ô hay, mùa xuân đến rồi sao?

Đã qua rồi, sáu năm tù ngục
Những ngày lưu xứ sống lao đao
Hắt hiu chốn rừng sâu, núi thẳm
Nhớ nhà thương nước tim nghẹn ngào
Núi rừng Hoàng Liên Sơn, Yên Bái
Có bao giờ lòng nguôi khổ đau!

Ta gọi tên đàn con yêu dấu
Duyên, Thơ, Trinh, Dũng, Tuấn, Quỳnh, Giao!
Thương tuổi thơ học hành dang dở
Mái đầu xanh sớm chịu cơ cầu
Mang nặng dĩ vãng bị trù giập
Ông cha xưa trí phú địa hào
Chập chững bước vào đời vắng bố
Tương lai mờ mịt biết về đâu

Thương vợ hiền sớm khuya tần tảo
Nuôi dạy con thân liễu gầy hao
Chắt chiu giọt mồ hôi nước mắt
Vượt ngàn trùng thăm ta trong lao
Phút gặp nhau nói cười ngoài mặt
Nhưng con tim nức nở réo gào
Giờ chia tay lòng đau chất ngất
Em nhìn ta nước mắt rơi mau!
Xót tình nghĩa tao khang nồng đượm
Nửa đường đời sớm tối bên nhau
Hơn sáu năm đoạn tình chăn gối
Oan khiên ơi đất thảm trời sầu!
Đêm trên nền xi măng lạnh giá
Thương căn nhà xinh trên đồi cao
Viên ngọc trắng bên lùm cây biếc
Chiều mây trôi thông reo rì rào
Chập chùng bỗng cuồng phong nổi dậy
Mái nhà thân yêu nay còn đâu?
Ôi tổ ấm một đời xây dựng
Chợt tan tành như giấc chiêm bao!

Từng đêm từng đêm sâu trằn trọc
Từng đêm thao thức với trăng sao
Nỗi hờn căm quân thù cướp nước
Tâm sự này xin gửi trời cao
Quanh ta vòng kẽm gai khép kín
Những bạn tù khuôn mặt vêu vao
Cùng ta đau niềm đau mất nước
Ôi tự do, lòng ta khát khao
Bao đêm mơ giấc mơ phục quốc
Than ôi! ta chẳng già rồi sao?

Trại 6 Thanh Chương, Nghệ Tĩnh 1/1981
Vũ Đức Nghiêm